Hiển thị các bài đăng có nhãn Game thể thao. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Game thể thao. Hiển thị tất cả bài đăng
2012/12/06
Game siêu nhân sút phạt
Game hay , Trong những trận đấu căng thẳng, những tình huống cố định luôn là những vũ khí lợi hại, đặc biệt là những bàn thắng được ghi từ những tình huống đá phạt trực tiếp. Hãy tận dụng những cơ hội đó ghi bàn và thể hiện bạn là một chuyên gia sút phạt hàng đầu.
Hướng dẫn chơi game:
Bạn sẽ có một bài tập gồm 10 tình huống sút phạt khác nhau và chỉ được phép 10 lấn sút trượt.
Sử dụng chuột để di chuyển cầu thủ sang các hướng đá phạt khác nhau. Sau khi chọn hướng bấm chuột trái để sút.
Chú ý: Bạn phải chú ý hướng gió thổi để đưa ra những quyết định đúng đắn.
Nhiều người nghĩ rằng có thể làm nhiều việc một lúc là dấu hiệu của bộ não khỏe mạnh và sắc bén. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu tại trường Đại học Michigan (Mỹ) tin rằng việc theo dõi nhiều nội dung truyền thông một lúc - như vừa chơi game trên máy tính, vừa xem tivi - có thể liên quan với những sự rối loạn về tâm thần.
Nhóm nghiên cứu đã khảo sát 319 thanh niên về tần suất và số lượng thời gian mỗi tuần họ dành để theo dõi nhiều phương tiện truyền thông một lúc như xem tivi, nghe nhạc, chơi game, lướt web...
Ông Mark Becker - Trưởng nhóm nghiên cứu đã bày tỏ sự ngạc nhiên khi phát hiện ra sự liên quan rõ ràng giữa việc theo dõi nhiều nội dung truyền thông cùng lúc và các vấn đề về sức khỏe tâm thần. Tuy nhiên, ông cũng cho hay còn một vấn đề chưa rõ ràng: “Chúng tôi chưa rõ việc theo dõi nhiều nội dung truyền thông có phải nguyên nhân gây ra chứng trầm cảm và lo âu, hay những người đang bị trầm cảm thường tìm đến nhiều phương tiện truyền thông để giải tỏa”. Ông Becker nói rằng cần nghiên cứu thêm để khám phá mối quan hệ nguyên nhân - kết quả giữa hai yếu tố này. Nếu việc sử dụng nhiều phương tiện truyền thông một lúc gây ra chứng trầm cảm và lo âu, chúng ta nên giảm bớt thói quen sinh hoạt này. Mặt khác, nếu trạng thái lo âu và trầm cảm khiến người ta có nhu cầu theo dõi nhiều nội dung giải trí một lúc, họ có thể dùng cách này để lấy lại tinh thần.
Ông Becker nhấn mạnh: “Dù cho kết quả cuối cùng có là gì đi nữa, đây vẫn là thông tin quan trọng giúp chúng ta hiểu rõ hơn về hoạt động theo dõi nhiều nội dung truyền thông một lúc và cách giảm thiểu tác động tiêu cực của nó”.
Nghiên cứu này đã được nói đến trong một bài viết trên tạp chí khoa học Cyberpsychology, Behavior and Social Networking.
Hướng dẫn chơi game:
Bạn sẽ có một bài tập gồm 10 tình huống sút phạt khác nhau và chỉ được phép 10 lấn sút trượt.
Sử dụng chuột để di chuyển cầu thủ sang các hướng đá phạt khác nhau. Sau khi chọn hướng bấm chuột trái để sút.
Chú ý: Bạn phải chú ý hướng gió thổi để đưa ra những quyết định đúng đắn.
Sưu tầm : Chơi game lúc xem tivi có thể bị rối loạn tâm thần
Việc theo dõi nhiều loại nội dung truyền thông một lúc, như vừa chơi game video vừa xem tivi, có liên quan tới các chứng rối loạn tâm thần như lo âu và trầm cảm.Nhiều người nghĩ rằng có thể làm nhiều việc một lúc là dấu hiệu của bộ não khỏe mạnh và sắc bén. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu tại trường Đại học Michigan (Mỹ) tin rằng việc theo dõi nhiều nội dung truyền thông một lúc - như vừa chơi game trên máy tính, vừa xem tivi - có thể liên quan với những sự rối loạn về tâm thần.
Nhóm nghiên cứu đã khảo sát 319 thanh niên về tần suất và số lượng thời gian mỗi tuần họ dành để theo dõi nhiều phương tiện truyền thông một lúc như xem tivi, nghe nhạc, chơi game, lướt web...
Ông Mark Becker - Trưởng nhóm nghiên cứu đã bày tỏ sự ngạc nhiên khi phát hiện ra sự liên quan rõ ràng giữa việc theo dõi nhiều nội dung truyền thông cùng lúc và các vấn đề về sức khỏe tâm thần. Tuy nhiên, ông cũng cho hay còn một vấn đề chưa rõ ràng: “Chúng tôi chưa rõ việc theo dõi nhiều nội dung truyền thông có phải nguyên nhân gây ra chứng trầm cảm và lo âu, hay những người đang bị trầm cảm thường tìm đến nhiều phương tiện truyền thông để giải tỏa”. Ông Becker nói rằng cần nghiên cứu thêm để khám phá mối quan hệ nguyên nhân - kết quả giữa hai yếu tố này. Nếu việc sử dụng nhiều phương tiện truyền thông một lúc gây ra chứng trầm cảm và lo âu, chúng ta nên giảm bớt thói quen sinh hoạt này. Mặt khác, nếu trạng thái lo âu và trầm cảm khiến người ta có nhu cầu theo dõi nhiều nội dung giải trí một lúc, họ có thể dùng cách này để lấy lại tinh thần.
Ông Becker nhấn mạnh: “Dù cho kết quả cuối cùng có là gì đi nữa, đây vẫn là thông tin quan trọng giúp chúng ta hiểu rõ hơn về hoạt động theo dõi nhiều nội dung truyền thông một lúc và cách giảm thiểu tác động tiêu cực của nó”.
Nghiên cứu này đã được nói đến trong một bài viết trên tạp chí khoa học Cyberpsychology, Behavior and Social Networking.
2012/12/02
download Game đua xe máy mô tô thời xưa (cổ điển)
Click vào đây để Download game đua xe cổ điển
Đây là một loại game thể thao khá cổ điển nhưng vẫn được nhiều người thích chơi vì trong cuộc đua có những pha rất thú vị chẳng hạn dùng chân đá đối thủ, dùng tay, xích, côn đập đối thủ để dành tới đích đầu tiên.Các bạn sẽ tùy chọn đường đua cho mình như: đường phố, đường nông thôn, đường núi, đường biển
Game đua Siêu xe hạng nặng
Nhiệm vụ của bạn là chiến thắng ở giải đua xe hạng nặng này.
Cách chơi:
Sử dụng các phím mũi tên lên, xuống,trái,phải để di chuyển.
Cau hỏi hay
Thế nào được coi là siêu xe
Không phải cứ đắt tiền thì được gọi siêu xe, bởi định nghĩa này phức tạp hơn thế nhiều. Nhưng chắc chắn, Ferrari và Lamborghini là hai hãng siêu xe, chứ không phải Mercedes hay Audi."Siêu xe" là một thuật ngữ hiện đại, tuy nhiên, những loại xe thuộc đẳng cấp này đã xuất hiện từ thời kỳ bình minh của ngành công nghiệp ôtô. Bằng chứng là Bugatti Type 57C, sản xuất từ những năm 1930 là một siêu xe, cũng giống như Bugatti EB110 xuất hiện sau đó khoảng 60 năm.
Khi xe có động cơ xuất hiện vào cuối thế kỷ 19, mục tiêu của phần lớn công chúng là cố gắng sở hữu một chiếc. Nhưng theo thời gian, việc sản xuất xe hàng loạt khiến chúng trở nên phổ biến và nhàm chán. Những người giàu có giờ lại muốn những chiếc xe nhanh nhất, đắt nhất và quyến rũ nhất mà tiền có thể mua được. Từ đó sinh ra siêu xe.
Dựa trên thực tế rằng siêu xe, đầu tiên và quan trọng nhất, là những cỗ máy công suất cao, nên định nghĩa về siêu xe cũng xuất phát từ sức mạnh của xe. Ngoài ra, đó là những chiếc xe thể thao có thiết kế đặc biệt, tính năng cao cấp. Khái niệm này gây ra nhiều tranh cãi nhất trong giới chơi xe bởi ranh giới giữa nó và xe hạng sang, xe cơ bắp rất mong manh.
Bugatti Veyron là ví dụ điển hình của siêu xe ngày nay.
Để được gọi là siêu xe lại còn phụ thuộc vào quan niệm của từng thời kỳ. Đầu tiên, nó được hiểu như những mẫu đặc biệt và có phần "hoang tưởng". Sau đó người ta chuyển sang ám chỉ "xe khác người", xuất phát từ cách gọi của cánh nhà báo ôtô.
Một cách tổng quát, để nhận dạng một chiếc siêu xe, cần dựa vào các đặc điểm như tính năng, thiết kế, giá cả, độ phức tạp khi cầm lái. Một số nhà sản xuất một cách tự nhiên được liệt vào phân khúc siêu xe như Lamborghini, Ferrari, Bugatti, Aston Martin. Không ai gọi Mercedes hay Audi là "hãng siêu xe" cho dù các thương hiệu này thỉnh thoảng có các mẫu nằm trong danh sách như SLS AMG hay R8.
Tính năng của một chiếc xe dựa trên giá trị của tỷ lệ trọng lượng -công suất, độ tăng tốc, thời gian hãm và vận tốc tối đa có thể đạt được. Đây là đặc điểm quan trọng để xác định một mẫu xe có xứng đáng gọi là siêu xe hay không. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào đây, người ta dễ nhầm chúng với xe thiết kế đặc biệt, xe thể thao dân dụng hay xe cải tiến.
Hộp số trên chiếc Ferrari 458 Italia. Chỉ có các chế độ Auto, R nên rất khó để ai đó biết cách cho siêu xe này chạy.
Do sức mạnh và khả năng vận hành cao nên trước khi "cầm cương", tài xế phải "học". Điều này không có ý chê bai những người có kinh nghiệm, tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ giữa các siêu xe thường có cấu trúc và cách vận hành khác. Vì vậy, "đào tạo" trước là cách duy nhất để giảm thiểu rủi ro cho người lái.
Tỷ số trọng lượng - công suất nhỏ
Tất cả các hãng đều sản xuất siêu xe theo hướng nâng cao công suất động cơ và giảm khối lượng xuống thấp nhất có thể, kéo theo tỷ số trọng lượng - công suất nhỏ hơn nhiều so với xe dân dụng. Chẳng hạn, Ferrari Enzo có tỷ số 2,1 kg/mã lực, tương đương sức mạnh của một chú ngựa khi kéo vật nặng 2,1 kg. Với Bugatti Veyron, tỷ số là 1,8 kg/mã lực.
Khả năng tăng tốc lớn
Nhờ tỷ số trọng lượng - công suất thấp nên siêu xe có thời gian tăng tốc luôn ở tầm "ngoại hạng". Có nhiều mức đánh giá nhưng chung nhất, người ta chia thành khả năng tăng tốc 0-100 km/h, 0-160 km/h hoặc thời gian đi một phần tư dặm (402,3 m). Từ vị trí xuất phát, siêu xe không mất quá 4 giây để kim đồng hồ đạt 100 km/h. Đỉnh cao hiện nay là Bugatti Veyron 16.4 Super Sport với 2,2 giây.
Tiêu chuẩn vượt qua một phần tư dặm phải dưới 13 giây, vận tốc trung bình 177 km/h và thời gian tăng tốc 0-160 km/h không quá 10 giây. Chiếc Enzo Ferrari có thể hoàn thành hơn 400 m trong khoảng 11,1 giây, tương đương với vận tốc 214 km/h, còn Koenigsegg CC, trình làng 2004, mất 9 giây, vận tốc trung bình 235 km/h.
Thiết kế ấn tượng
Lamborghini Gallardo Super Trofeo Stradale tại Frankfurt. Người ta có thể thích hoặc không thích một chiếc siêu xe. Nhưng ít ai chê chúng xấu.
Phong cách đặc trưng là dấu hiệu dễ nhận thấy của các siêu xe. Chẳng hạn như nhờ mô tả cấu trúc của xe F1, mẫu Enzo Ferrari đã tạo nên một hình ảnh và xu hướng thiết kế rất đặc trưng cho Ferrari. Đa số siêu xe sinh ra không nhằm vào số đông nên chúng thường có kiểu coupe 2 chỗ và cấu trúc khá lạ mắt. Nguyên nhân chính nằm ở việc để đạt vận tốc cao, ngoài yếu tố công suất, siêu xe cần có tính năng khí động học để giảm sức cản gió, tăng độ bám đường nhằm không bị "bay" lên khi chạy vận tốc cao.
Tốc độ tối đa trên 300 km/h
Khả năng tăng tốc là điều kiện cần, nhưng chưa đủ để nói lên sức mạnh của siêu xe. Muốn đứng trong hàng ngũ này, nó phải có tốc độ tối đa từ 300 km/h trở lên.
Năm 2010, Bugatti ra mắt Veyron 16.4 Super Sport từng được ghi tên vào sách kỷ lục Guinness với tốc độ tối đa trung bình đạt 431 km/h. Trước đó hơn 10 năm, ngày 31/3/1998, McLaren F1 do Andy Wallace lái tại đường thử Volkswagen Ehra, dài 9 km/h, đã đạt vận tốc 391,1 km/h, lập kỷ lục vận tốc vào thời điểm đó.
Thời gian 0-160-0 dưới 10 giây
Không chỉ tăng tốc, đạt tốc độ tối đa, siêu xe cần có thời gian giảm tốc ngắn, nhằm đảm bảo rằng nó có thể dừng lại trước khi nguy hiểm xảy ra. Thông thường, 10 giây là giới hạn để tăng tốc từ 0 lên 160 km/h rồi từ 160 km/h về vị trí đứng yên.
Giá đắt
Giá cả cũng đóng góp phần lớn vào tiêu chí của siêu xe. Để làm nên những tính năng có một không hai, chắc chắn giá của nó không hề rẻ. Hiện nay, siêu xe có thể đạt tới mức giá hàng triệu USD mỗi chiếc, điển hình như Bugatti Veyron 16.4 Super Sport với 2,4 triệu, hay Koenigsegg Trevita 2,21 triệu USD.
2012/11/28
2012/11/26
Đua xe mô tô GP
Đua moto GP 500cc sẽ đưa các bạn tới những vòng đua vô cùng nghiệt ngã từ ban ngày trên những sa mạc đầy cát tới ban đêm trong thành phố đầy sương.
Cách chơi:Sử dụng chuột để chơi game.
Bấm chuột trái để tăng tôc độ, di chuyển chuột qua trái hoặc qua phải khi gặp những khúc cua.
Mình rất thích xe cộ, đặc biệt là xe hơi và xe mô tô phân khối lớn. Lúc còn nhỏ, mình và đám nhóc trong xóm từng trầm trồ thích thú nhìn ngắm một chiếc Harley Davidson to như con bò mộng đậu ở căn biệt thự đầu xóm, và bây giờ thì mê mệt với những chiếc Naked như Ducati Monster 795, Honda CB1000RR hoặc Kawasaki Z1000... Đó cũng là một phần lý do mình thích xem các giải đua xe trên thế giới, ví dụ Formula One và đặc biệt là MotoGP. Vậy thì đua xe MotoGP có gì đặc biệt, chúng ta hãy cùng tìm hiểu qua bài viết này nhé.
Đua xe mô tô phân khối lớn
Đây là một môn thể thao rất phổ biến trên thế giới ngày nay, hầu như các quốc gia phát triển đều có sân chơi cho bộ môn tốc độ cao này. Hiện nay, đua xe mô tô chính qui được phân ra làm 3 hạng mức, gồm Moto3 (trước đây là 125cc), Moto2 và MotoGP. Từ năm 2010, hạng mức 250cc được thay thế bằng giải Moto2, sử dụng các xe mô tô có động cơ 4 thì, 600 phân khối. Từ năm 2012, hạng mức 125cc được nâng cấp lên thành Moto3, dùng xe 4 thì 250cc, những chiếc xe tham dự giải Moto3 chỉ được phép có trọng lượng ướt tối đa là 65kg, tức là khi đã đổ đầy xăng. Còn giải MotoGP được nâng cấp xe từ 800cc lên 1000cc kể từ mùa giải 2012.
Sơ lược về các đội đua
Trong 3 giải kể trên, MotoGP là giải đua xe mô tô phân khối lớn lớn nhất hiện nay, với 18 giải được tổ chức hàng năm khắp nơi trên thế giới. Động cơ của những chiếc xe đua MotoGP được sản xuất bởi 4 tên tuổi hàng đầu thế giới là Ducati, Honda, Suzuki và Yamaha (có đến 3 thương hiệu của Nhật Bản, riêng Ducati của Ý), vỏ xe được cung cấp bởi Bridgestone (Nhật Bản). Hiện tại Jorge Lorenzo thuộc đội Yamaha Factory Racing đang là tay đua nắm giữ giải vô địch MotoGP mùa giải 2010 và 2012, anh cũng từng nắm giải vô địch phân khúc 250cc năm 2006 và 2007 với đội Honda. Xem thêm về danh sách các tay đua và đội đua MotoGP ở đây.
Sau mỗi trận đua, 15 hạng về đầu sẽ được chia điểm thưởng. Trong đó hạng 1 được 25 điểm, hạng 2 được 20 điểm, hạng 3 được 16 điểm... và giảm dần xuống đến hạng 15 được 1 điểm.
Lịch sử MotoGP
Kể lại một chút về chuyện xưa. Năm 1894, tức cuối thế kỉ 19, người Đức sản xuất và bán ra chiếc xe máy đầu tiên của thế giới. Và chỉ vài năm sau đó thôi, nhân loại (hay là những người đàn ông?) đã nghĩ ra trò chơi đua xe mô tô, và từ đó, nhiều giải đua xe mô tô lần lượt được ra đời, trước cả khi 2 cuộc chiến tranh thế giới xảy ra, sau đó tạm ngưng vài năm do Thế chiến II bùng nổ. Lịch sử có ghi lại rằng vào năm 1906, Đế quốc Anh tổ chức giải đua xe mô tô chính qui đầu tiên trên thế giới, ở đảo Isle of Man nằm gần Ireland. Sau Thế chiến II, FIM (Federation Internationale de Motorcyclisme - tổ chức quốc tế về xe máy) ra đời vào năm 1949, tiền thân của đơn vị tổ chức các giải Grand Prix ngày nay. Vì vậy, có thể xem MotoGP là một trong những môn thể thao lâu đời nhất hiện nay.
Một giải đua mô tô ngày xưa
Từ năm 2002 trở về trước, giải MotoGP cho phép sử dụng các loại xe mô tô (sport bike) có động cơ 2 thì hoặc 4 thì, dung tích xy lanh từ 500 đến 990 phân khối. Đến 11/12/2009, Ủy ban Grand Prix quyết định nâng cấp chuẩn mực mới cho động cơ xe MotoGP, lên 1000cc và bắt đầu áp dụng kể từ mùa giải 2012.
Thông số của một chiếc xe đua MotoGP
Như đã nói ở trên, kể từ mùa giải 2012 thì các xe MotoGP sẽ sử dụng động cơ 4 thì, 1000 phân khối, dung tích bình xăng tối đa 21 lít. Grand Prix Commission cũng rất khắc khe trong việc qui chuẩn động cơ của xe MotoGP, nhà sản xuất có thể chế tạo xe dùng động cơ từ 2 đến 6 xy lanh, và sẽ chịu sự giới hạn trọng lượng tối đa toàn chiếc xe. Ví dụ nếu dùng động cơ 2 xy lanh thì xe chỉ được nặng tối đa 135kg (300 cân Anh), nặng 142,5kg nếu có động cơ 3 xy lanh, 150kg nếu 4 xy lanh hoặc tối đa 165kg với động cơ 6 xy lanh. Tuy nhiên kể từ năm 2012 thì động cơ chỉ còn được sử dụng loại 4 xy lanh (16 van) mà thôi.
Cân nặng tối đa của xe tương ứng với số xy lanh.
Chi tiết thông số phổ biến của 1 động cơ xe MotoGP:
Loại động cơ: V-twin hoặc V4 hoặc Inline-4.
Dung tích xy lanh: 1000 phân khối.
Chu kì: 4 thì, 16 van, DOHC, 4 van mỗi xy lanh.
Nhiên liệu: Dùng xăng có chỉ số Octane 100.
Phun xăng điện tử Fi.
Công suất động cơ tối đa: 240 HP (180 kW).
Làm mát động cơ: bằng dung dịch, 1 máy bơm.
Số vòng tua: tối đa từ 17.500 đến 18.000 vòng/phút.
Tốc độ tối đa: 349 km/giờ (217 dặm/giờ).
2012/11/25
Game đua xe công thức 1 (siêu tốc)
Cách chơi :
- Nhấn chuột trái để tăng tốc.
- Nhả chuột để phanh.
- Phím mũi tên lên : Tăng tốc
- Phím mũi tên xuống : phanh
- Phím mũi tên trái : rẽ trái
- Phím mũi tên phải : rẽ phải
Tìm hiểu về đua ô tô Công thức 1
Công thức 1 (tiếng Anh: Formula One), còn gọi là Thể thức 1 hay F1, là cấp độ đua xe bánh hở cao nhất theo định nghĩa của Liên đoàn Ô tô Quốc tế (Fédération Internationale de l'Automobile hay FIA), cơ quan quản lý thế giới về thể thao mô tô. "Công thức" trong tên gọi là để chỉ một loạt quy định mà tất cả người và xe tham gia phải tuân thủ. Mùa giải vô địch thế giới F1 bao gồm một chuỗi các cuộc đua, được biết đến với tên Grands Prix, thường được tổ chức tại những đường đua được xây dựng riêng, cũng có một số ít trường hợp là trên những con đường trong thành phố, cuộc đua nổi tiếng nhất trong số đó là Monaco Grand Prix ở Monte Carlo. Kết quả của mỗi cuộc đua được tổng hợp lại để xác định hai Nhà vô địch Thế giới hàng năm, một dành cho tay đua và một dành cho đội đua.
Xe hơi Công thức 1 khi đua với tốc độ cao nhất có thể lên tới 360 km/h (225 mph) với vòng quay máy lên tới 19000 vòng một phút. Những chiếc xe này có khả năng kéo gấp 5 lần trọng lực tại một số khúc cua. Hiệu suất của xe phụ thuộc rất nhiều vào điện tử, khí động lực học, nhíp và bánh xe. Động cơ và truyền động của một chiếc xe Công thức 1 hiện đại là một trong số những bộ phận cơ khí phải chịu áp lực lớn nhất trên hành tinh. Công thức 1 đã chứng kiến nhiều sự phát triển và thay đổi trong suốt chiều dài lịch sử của môn thể thao này.
Châu Âu là cái nôi của Công thức 1; tất cả các đội đấu đều có trụ sở tại đó và khoảng một nửa cuộc đua tổ chức tại đó. Cụ thể hơn Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland đã sản sinh ra nhiều tay đua vô địch nhất , và đại đa số đội đua vô địch . Tuy nhiên, phạm vi của môn thể thao này đã mở rộng đáng kể trong những năm gần đây và Grands Prix giờ đây được tổ chức ở khắp nơi trên thế giới. Một số cuộc đua ở châu Âu dần chuyển sang các cuộc đua tại các châu lục khác, nhất là châu Á như Bahrain, Trung Quốc, Malaysia và Thổ Nhĩ Kỳ, Singapore đã tổ chức cuộc đua đêm đầu tiên vào năm 2008, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất bắt đầu đăng cai năm 2009 và Ấn Độ đã được thêm vào lịch bắt đầu từ năm 2011. Trong số 19 cuộc đua vào năm 2011 (chưa kể GP Bahrain), có 9 cuộc đua là ở bên ngoài châu Âu
Công thức 1 là một sự kiện truyền hình lớn, với hàng triệu người theo dõi mỗi cuộc đua trên khắp thế giới. Là môn thể thao đắt đỏ nhất thế giới[3], hiệu ứng kinh tế của nó là rất rõ ràng, và những trận chiến tài chính và chính trị đã xảy ra ở nhiều nơi. Trung bình khoảng 55 triệu người trên thế giới theo dõi trực tiếp các cuộc đua Công thức 1. Lịch sử và sự phổ biến của môn thể thao này đã khiến cho nó trở thành một môi trường buôn bán hiển nhiên, dẫn đến sự đầu tư cao từ những nhà tài trợ, chuyển thành ngân sách cực lớn dành cho các đội đua. Vài đội đua đã phá sản hoặc bán cho công ty khác từ năm 2000. Ví dụ gần đây nhất về điều này là đội đua Super Aguri đã bị từ chối không cho tham gia Giải Grand Prix Tây Ban Nha và sau đó phải giải tán do thiếu nguồn tiền sau khi nỗ lực thu hút tài trợ bất thành.
Môn thể thao này do FIA quản lý. Các quyền thương mại của Công thức 1 thuộc quyền sở hữu của Nhóm Công thức 1.
Lịch sử
Loạt cuộc đua Công thức 1 có nguồn gốc từ Giải Grand Prix Đua Mô tô vào những năm 1920 và 1930. "Công thức" là một tập các quy định mà tất cả những người và xe tham gia phải tuân thủ. Công thức 1 là một công thức mới được chấp thuận sau Đệ nhị thế chiến vào năm 1946, với cuộc đua không tính vô địch đầu tiên được tổ chức vào năm đó. Một số tổ chức đua xe Grand Prix đã đặt ra các luật lệ dành cho Giải vô địch Thế giới ngay từ trước chiến tranh, nhưng do sự trì hoãn vì chiến tranh, Giải vô địch Các tay đua Thế giới vẫn không được trở thành giải chính thức cho đến năm 1947. Cuộc đua vô địch thế giới đầu tiên được tổ chức tại Silverstone, Liên hiệp Anh vào năm 1950. Một giải vô địch dành cho đội đua diễn ra tiếp đó vào năm 1958. Các giải vô địch quốc gia được tổ chức tại Nam Phi và Liên hiệp Anh vào thập niên 1960 và 1970. Các cuộc đua Công thức 1 không tính vô địch được tổ chức trong nhiều năm nhưng do chi phí cho cuộc đua ngày càng cao, cuộc đua cuối cùng như thế này đã diễn ra vào năm 1983[4].
Các cuộc đua trở lại (1950–1958)
Chiếc Alfa Romeo 159 đã cùng Juan Manuel Fangio giành chiến thắng trong 1951.
Nhà vô địch Giải vô địch Thế giới Công thức 1 đầu tiên là tay đua người Ý Giuseppe Farina trong chiếc Alfa Romeo trong năm 1950, chỉ vừa vặn đánh bại đồng đội người Argentina Juan Manuel Fangio của ông. Tuy nhiên Fangio đã giành lại chức vô địch các năm 1951, 1954, 1955, 1956 & 1957 (kỷ lục 5 lần giành chức vô địch thế giới của ông đã tồn tại suốt 45 năm cho đến khi tay đua người Đức Michael Schumacher giành được chức vô địch thứ 6 vào năm 2003), mạch chiến thắng của ông bị ngắt trong 2 năm 1952 và 1953 do chấn thương, và người đoạt giải trong các năm đó là Alberto Ascari của đội đua Ferrari. Mặc dù Stirling Moss thường xuyên thi đấu, ông chưa bao giờ giành được một Chức vô địch Thế giới nào, và được xem là tay đua vĩ đại nhất chưa từng giành được danh hiệu nào
.
Khoảng thời gian này là khoảng thời gian thống trị của những đội đua do những nhà sản xuất xe hơi phổ thông điều hành - Alfa Romeo, Ferrari, Mercedes Benz và Maserati - tất cả các đội đua này đều đã thi đấu từ trước chiến tranh. Mùa giải đầu tiên, các đội đua sử dụng những chiếc xe trước thế chiến như 158 của Alfa. Chúng đều có động cơ phía trước, bánh xe có ta-lông hẹp và động cơ hút thường 4,5 lít hoặc tăng nạp 1,5 lít. Giải vô địch thế giới các năm 1952 và 1953 áp dụng quy dịnh của Công thức 2, với những chiếc xe nhỏ hơn, yếu hơn, do lo ngại về số lượng xe hơi Công thức 1 không có nhiều trên thị trường. Khi quy định Công thức 1 mới, với động cơ giới hạn còn 2,5 lít, được tái áp dụng vào năm 1954, Mercedes-Benz đã cho ra mắt chiếc W196 cải tiến, trong đó có một số sáng kiến đáng chú ý như van điều khiển vòng (desmodromic valve) và phun nhiên liệu cũng như thân xe đóng kín có hình dáng thuôn hơn. Mercedes đã giành chức vô địch tay đua trong hai năm, trước khi rút ra khỏi tất cả các giải đua mô tô sau Cuộc khủng hoảng Le Mans 1955[8].
Những cải tiến vĩ đại (1959–1980)
Sự cải tiến lớn về công nghệ đầu tiên, đó là sự tái sản xuất các loại hơi có động cơ tầm trung của Cooper (theo sau chiếc Auto Union tiên phong của Ferdinand Porsche vào những năm 1930), lấy ý tưởng từ những mẫu thiết kế Công thức 3 thành công của công ty, diễn ra vào những năm 1950. Tay đua người Úc Jack Brabham, nhà vô địch thế giới vào năm 1959, 1960 và 1966, đã nhanh chóng chứng tỏ được tính ưu việc của mẫu thiết kế mới. Đến năm 1961, tất cả những tay đua thi đấu đã chuyển sang các loại xe hơi động cơ tầm trung
Nhà vô địch Thế giới người Anh đầu tiên là Mike Hawthorn, người lái một chiếc Ferrari giành được danh hiệu vào năm 1958. Tuy nhiên, khi Colin Chapman gia nhập làng với vai trò nhà thiết kế khung gầm và sau đó là người thành lập Team Lotus, Đội đua xanh của Anh bắt đầu thống trị các đường đua trong thập niên tiếp theo. Với Jim Clark, Jackie Stewart, John Surtees, Jack Brabham, Graham Hill, và Denny Hulme, các tay đua của đội Anh và Khối thịnh vượng chung đã giành được mười hai chức vô địch thế giới từ năm 1962 đến 1973.
Vào năm 1962, Lotus giới thiệu chiếc xe hơi có miếng gầm khung bằng nhôm gắn liền với thân thay cho kiểu thiết kế dạng khung truyền thống. Cải tiến này đã được chứng minh là bước đột phá vĩ đại nhất về công nghệ kể từ khi những chiếc xe hơi động cơ tầm trung ra mắt. Vào năm 1968, Lotus sơn lại tất cả chiếc xe của đội sang màu gan của hãng Imperial Tobacco, từ đó giới thiệu hình thức tài trợ vào môn thể thao[10].
Lực ép xuống của động lực học dần dần trở nên quan trọng trong mẫu thiết kế xe kể từ khi có sự xuất hiện của cánh máy bay vào cuối thập niên 1960. Vào cuối thập niên 1970, Lotus giới thiệu khí động lực học về hiệu ứng mặt đất cung cấp lực ép xuống khổng lồ và làm tăng đáng kể tốc độ bẻ cua (mặc dù khái niệm này trước đây đã được dùng trong Chaparral 2J của Jim Hall vào năm 1970). Các lực động lực học tác động lên xe lớn quá lớn (lên đến 5 lần trọng lượng xe) đến nỗi cần những lò xo cực cứng để duy trì một khoảng sáng gầm xe cố định, khiến cho nhíp xe gần như rắn, và bất kỳ một độ nhún nào giữa xe và người với độ bấp bênh của mặt đường phụ thuộc hoàn toàn vào bánh x
]Các quy định và kỹ thuật theo dòng thời gian
Trước Thế chiến thứ hai, bên cạnh các quy định cho ô tô chuyên dùng trong các giải Grand Prix còn có một loại khung xe rẻ tiền hơn gọi là voiturettes (xe con), cho phép có động cơ lắp máy nén đến 1.500 cm³.
Dưới áp lực của hai đội Grand Prix của Đức, Mercedes-Benz và Auto Union, hai đội mà không được sự đồng tình ở nước ngoài cả về chính trị lẫn về thể thao, nên vào cuối thập niên 1930 đã có những cố gắng hủy bỏ những quy định thời bấy giờ và đưa các voiturettes trở thành hạng Grand Prix. Ngoài việc khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất Anh, Pháp và Ý được cải thiện rõ rệt, các đổi mới về an toàn cũng được nêu lên làm lý do cho việc thay đổi các quy định. Vì thế giải Grand Prix ở Tripoli (Libya) năm 1939 được tổ chức cho các voiturettes, nhưng mặc dù vậy Mercedes-Benz đã đoạt giải một cách bất ngờ với một chiếc ô tô được chế tạo mới đặc biệt cho mục đích này.
Ngay sau chiến tranh các xe đua voiturettes vẫn được chế tạo, đặc biệt là bởi Alfa Romeo, nên Liên đoàn Ô tô Quốc tế (FIA) đã điều chỉnh lại các quy định dành cho các xe đua Grand Prix có hiệu lực từ năm 1947: trong hạng từ đó được gọi là Formula 1 cho phép các động cơ lắp máy nén (supercharged engine) có dung tích đến 1.500 cm³ và động cơ hút (atmospheric engine) đến 4.500 cm³. Thêm vào đó Formula 2 được định nghĩa cho loại động cơ hút có dung tích đến 2.000 cm³.
Các cuộc đua xe riêng lẻ cho giải Grand Prix được tổ chức theo các quy định này, loạt đua hay giải vô địch châu Âu như trước chiến tranh không còn nữa. Nhưng khi Liên đoàn Mô tô Quốc tế (Fédération Internationale de Motocyclisme - FIM) tổ chức giải vô địch thế giới vào năm 1949, FIA phản ứng bằng giải vô địch thế giới trong năm 1950. Cuộc đua xe đầu tiên của giải vô địch thế giới mới diễn ra vào ngày 13 tháng 5 năm 1950 ở Silverstone (Anh).
Để củng cố cho yêu cầu tự đưa ra là một giải vô địch thế giới mặc dù gần như chỉ có châu Âu tham dự, trong thời gian từ 1950 đến 1960 cuộc đua 500 dặm ở Indianapolis (Hoa Kỳ) đã được cho điểm của giải vô địch thế giới mặc dầu thi theo các quy định hoàn toàn khác.
Trong 2 năm đầu tiên xe Alfetta trang bị động cơ có máy nén của Alfa Romeo, xe có nhiều điểm tương tự như các thiết kế trước chiến tranh, tiếp tục chiếm ưu thế. Tuy vậy cuối năm 1951 Alfa Romeo rút lui ra khỏi môn thể thao đua xe này sau hai thập niên đạt được nhiều thành tích. Vì chỉ còn có Ferrari, lãnh đạo đua xe của Alfa, là có khả năng thiết kế các loại xe đua F1 có thể cạnh tranh nên giải vô địch thế giới các năm 1952 và 1953 tạm thời được tổ chức cho loại xe F2 ít tốn kém hơn hơn. Mặc dù vậy Ferrari vẫn chiếm ưu thế trong các năm này và đều đoạt giải với Alberto Ascari.
Năm 1954 quy định mới ít tốn kém hơn (F1 với động cơ hút đến 2.500 cm³ hay động cơ có máy nén đến 750 cm³, F2 đến 1.500 cm³) ra đời, vì thế nhiều hãng xe trong đó có Mercedes quyết định lại tiếp tục tham dự.
Porsche 804 Xe đua Công thức 1 năm 1962
Từ 1961 đến 1965 các quy định cũ dùng cho F2 trở thành F1 làm cho các đội nhỏ của Anh đang chiếm ưu thế giận dữ vì họ không tự chế tạo động cơ được. Porsche đã chế tạo xe cho F2 đạt được nhiều thành tích từ nhiều năm nên việc đi lên F1 trở nên gần gũi. Thế nhưng chiếc động cơ 4 xy lanh có nguồn gốc từ Volkswagen không thể cạnh tranh được. Khung xe kiểu 718 cũng quá nặng nề so với các đối thủ. Với kiểu 804 mới có động cơ 8 xy lanh Porsche chiến thắng duy nhất một lần ở giải vô địch thế giới tại Rouen (Pháp) năm 1962 với Dan Gurney. Cuối mùa đua xe năm đó Porsche rút lui khỏi hạng F1 do tốn kém và do không sản xuất hằng loạt được và lại tập trung vào sản xuất ô tô thể thao vốn là lĩnh vực của họ.
Vì xe thể thao và ngay cả một số xe được sản xuất hằng loạt vào thời gian này có công suất lớn hơn cả loại gọi là cao nhất này nên vào năm 1966 các quy định lại được thay đổi bằng cách nâng gấp đôi dung tích xy lanh (3.000 cm³ cho động cơ hút, 1.500 cm³ cho động cơ có máy nén).
Động cơ Repco tương đối đơn giản chiếm ưu thế trong hai năm đầu tiên của hạng 3 lít vì sau khi quy định thay đổi trong thời gian ngắn không có động cơ nào thích hợp. Ngay cả Ferrari cũng phải mang một động cơ xe đua thể thao nhỏ cùng với một thiết kế sai lầm ra đường đua. BRM chồng hai động cơ 8 xy lanh lên thành một chiếc H16 và được gọi là "quái vật", Maserati khởi động lại một động cơ V12 từ thời đại 2.500 cm³ của thập niên 1950. Các động cơ được khoan thêm thành khoảng 2 lít của Coventry-Climax đã qua thử thách vẫn tiếp tục giành chiến thắng. Thế nhưng công ty này không muốn đầu tư vào phát triển một động cơ 3 lít nên rút lui khỏi F1.
Trong những năm từ 1968 đến 1982 động cơ được bán tự do V8-DFV Cosworth của Ford chiếm ưu thế trong F1 vì nhiều đội với động cơ này và cùng với 12 người lái xe đã giật giải vô địch thế giới trong tổng cộng 155 cuộc đua. Ferrari đoạt giải một lần với chiếc V12 có công suất mạnh hơn một ít, BRM với chiếc V12 chiến thắng một vài lần.
Bắt đầu từ năm 1977 Renault đưa động cơ turbo vào F1 và chiến thắng lần đầu với động cơ này vào năm 1979. Cho đến năm 1982 các động cơ hút tiết kiệm hơn, tin cậy hơn, ít tốn kém hơn và dễ lái hơn vẫn tiếp tục nắm giữ ưu thế mặc dù có công suất nhỏ hơn ngày càng thấy rõ. Bắt đầu từ năm 1983 các động cơ turbo có công suất mạnh hơn cuối cùng cũng chiếm ưu thế, trong các vòng chạy thử đã có thể tạo công suất cao hơn 1.000 mã lực rất nhiều trong khoản thời gian ngắn và vì thế đẩy lùi các lái xe động cơ hút xuống phần phía sau của đội hình khởi hành.
Các động cơ Cosworth đã qua thử thách với khoản 500 mã lực sau đó được sử dụng trong Formula 3000, hạng đua thay thế Formula 2 với các động cơ đua 2.000 cm³.
Chiếc xe đua mạnh nhất từ trước đến nay trong Công thức 1 là chiếc Benetton-BMW năm 1986 với 1.350 mã lực được điều khiển bởi tay đua người Áo Gerhard Berger, chiếm giải Grand Prix của Mexico trong cùng năm. Sau đó Berger tường thuật lại là "chiếc ô tô này gần như không thể chạy được vì mạnh quá", tức là phải hết sức cực nhọc mới điều khiển được chiếc xe.
Ralf Schumacher trong chiếc BMW-Williams (2003)
Bắt đầu từ năm 1989 các động cơ turbo bị cấm và chỉ còn cho phép các động cơ hút đến 3.500 cm³ (để phân biệt với F3000 với dung tích là 3.000 cm³), được sử dụng trong các loại V8, V10, V12 và ngay cả cho W12. Renault giới thiệu bộ điều khiển van bằng khí nén thay thế các lò xo thép cho phép tăng vòng quay nhanh 12.000 vòng/phút đang thông dụng cho đến thời điểm đó.
Sau mùa đua xe năm 1994, vì có nhiều tai nạn, dung tích được giảm xuống còn 3.000 cm³, công suất giảm từ khoảng 750 xuống còn 650 mã lực.
Từ năm 1996 Ferrari thay V12 nặng và tốn nhiều nhiên liệu bằng loại V10 mà cùng với loại này Michael Schumacher đã chiến thắng được 3 cuộc đua. Ngay từ năm 1997 người ta đã đạt lại được công suất 750 mã lực bằng cách tăng vòng quay nhanh hơn 17.000 vòng/phút.
Từ mùa đua xe 2005 các xe phải qua được hai cuối tuần đua mà không phải thay thế để giảm phí tổn và kiềm chế việc tăng công suất (hiện nay vào khoản 900 mã lực ở 19.000 vòng/phút).
Chơi game đánh bóng bàn trên giao diện 3D
Bạn có phải là một vận động viên giỏi và nổi tiếng không ? bạn đã từng thi đấu cho câu lạc bộ hay cho quốc gia chưa ? và bạn có thích một môn thể thao nào không ? đừng lo lắng, đến với game Bóng bàn 3D bạn sẽ có được những điều đó. bạn có tin không ? Vậy thì hãy chơi game này để biết tôi có nói ngoa không nhé.
Bóng bàn là một môn thể thao ra đời rất lâu nên có vị thế đứng rất vững trong làng thể thao. Bạn đã từng ao ước trở thành một Vương Hạo nổi tiếng, đó có phải là điều khó không. Test game để biết thực lực của mình tới đâu bạn nhé.

Hãy đánh trả lại những cú phản công của ông thầy để thầy nhận ra bạn cũng có tố chất một vận động viên . Không dễ gì được ông khen nhưng có vẻ bạn đang làm tốt đấy nhỉ. Có những cú đánh khó đỡ và chọn hai bên biên để đánh, bạn đừng mắc lừa thầy là bóng đi hết đường biên. Nhưng không, bạn phải đỡ nhanh đấy.
Cố lên bạn nhé, con đường tương lai đang rộng mở chào bạn .
beautiful wallpapers -
live wallpaper -
black wallpaper -
hinh anh -
nguoi dep -
anh nong
beautiful wallpapers, live wallpaper , black wallpaper , hinh anh , nguoi dep , anh nong